Lời
từ biệt
Của
Nhóm Thân hữu Trường Nữ trung học Đồng Khánh
Kính
gởi: Cố đồng nghiệp Phạm tiên sinh
Kính thưa Thầy,
Kính thưa Tang quyến và
các bạn nam nữ đồng nghiệp,
Hôm nay, ngày 14 tháng 9
năm 1994, chúng tôi, nhóm thân hữu của Thầy ở trường Nữ Trung học Đồng Khánh
đang tề tựu nơi đây để tiễn biệt Thầy. Trong không khí thân mật mà đau buồn và
xúc động này, chúng tôi xin phép có đôi lời thô thiển bày tỏ tâm tư tình cảm
của chúng tôi. Nhân đây, chúng tôi cũng xin mạn phép được thay mặt cho các thân
hữu và môn sinh Đồng Khánh hiện nay ở hải ngoại để tiễn đưa Thầy, tuy các bạn
ấy cách xa nhưng tình cảm không hề xa cách…
Kính thưa Thầy,
Gần đây, thấy sức khoẻ của
Thầy quá yếu, chúng tôi rất lo lắng và không khỏi linh cảm đến một tình trạng
không hay. Cho đến hôm nay, mặc dù tin buồn không đến đột ngột, nhưng anh chị
em chúng tôi vẫn cảm thấy bị hụt hẫng, đau đớn.
Thầy mất đi, gia đình mất
một trụ cột vững chãi, đông đảo môn sinh mất một vị sư phụ đáng tôn đáng kính,
và anh chị em chúng tôi mất đi một đồng nghiệp đáng quý đáng mến ở Trường Đồng
Khánh những năm xưa…
Thầy vào nghề năm 1944, về
nghỉ năm 1982, ở trong nghề 38 năm. Đó là khoảng thời gian khá dài đủ để sự
cống hiến của Thầy có một bề dày đáng kể; với khả năng chuyên môn già dặn vững
vàng, với phong cách làm việc khoa học và không hề mệt mỏi, với một tấm lòng
thương yêu học sinh rất mực, với lối sống khiêm tốn và trong lành gần như một
triết gia khắc kỷ muốn ẩn mình trong thế giới thanh cao của chữ nghĩa, của sách
vở; 38 năm trong nghề là một thời gian khá dài để un đúc hoàn thành ở Thầy
những phẩm chất đẹp đẽ của một nhà giáo ưu tú. Thầy quả xứng đáng với 4 từ cao
quý Nhà Giáo Ưu Tú. Đây không phải là một danh hiệu do sự bình
chọn và qua thủ tục hành chính (mà suốt đời Thầy cũng rất ngại sự bình
chọn và thủ tục hành chính), đây không phải là một danh hiệu khen thưởng viết
lên giấy trắng mực đen, đây là sự cống hiến của một con người; là sự lao động
âm thầm không mệt mỏi, suốt một đời tận tuỵ để góp phần xây dựng cho biết bao
thế hệ học sinh.
Từ Trường Lycéum Bassac ở
Cần Thơ là nhiệm sở đầu tiên đến Trường Đại học Sư Phạm Huế là nhiệm sở sau
cùng, lăn lộn qua nhiều trường, nhưng Trường Nữ Trung học Đồng Khánh là nơi
Thầy được lưu lại lâu nhất: dạy giờ từ năm học 1954-1955, giáo viên chính thức
từ năm học 1956-1957 cho đến 1976, trên 20 năm, có lẽ đây là giai đoạn yên thân
nhất, ổn định nhất trong cuộc đời đi dạy của Thầy, là thời kỳ an cư, lạc
nghiệp, có lẽ vì thế mà đây cũng là thời kỳ làm việc hào hứng, đắc ý nhất của
Thầy.
Hồi đó, hình như giữa
Trường Nữ Trung học độc nhất ở Huế và ở miền Trung này với vị giáo sư người gốc
Nam bộ xa xôi đã có một sự gặp gỡ, một tình cảm thân quen gắn bó mà mãi
về sau này, dù năm tháng có trôi qua, dù không gian có cách trở, nhưng tình cảm
vẫn không hề phai lạt…
Nhớ đến Thầy trong khung
cảnh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh là nhớ đến một đồng nghiệp đôn hậu và
thẳng thắn, vừa nghiêm nghị vừa vui tính; nhớ đến Thầy không thể không nhớ đến
tính nguyên tắc, đôi khi nguyên tắc đến nghiệt ngã. Không nguyên tắc thì lập
tức trở thành vô tổ chức, mà một nơi Cửa Khổng, Sân Trình như Trường Nữ Trung
học Đồng Khánh không thể chấp nhận. Để bảo vệ nguyên tắc, giữ vững kỷ cương nề
nếp, ắt phải có những biện pháp hữu hiệu, và Thầy là một trong những nam giáo
sư thường đưa ra những biện pháp tốt, có thể nói ở Thầy có cả một kho biện pháp
lớn, nhỏ. Phòng gian, bảo mật trong thi cử, đấu tranh cho sự công bằng và trong
sạch trong các kỳ thi, Thầy là một mũi nhọn hàng đầu.
Nhưng từ này, người đồng
nghiệp ấy đã ra đi mãi mãi… và mãi mãi… để lại nơi chúng tôi biết bao thương
tiếc bùi ngùi.
Hỡi ngôi trường cũ đầy ắp
kỷ niệm vẫn đứng mãi bên bờ sông Hương!
Hỡi những hàng cây phượng
vỹ vẫn in bóng mát xuống lối đi quen thuộc!
Hỡi những dãy phòng học
vẫn mở rộng cửa đón nhận nhiều thế hệ học sinh nối tiếp đi qua!
Nếu các người có một linh
hồn?
Nếu các người biết
rằng Nhà trường đang mất đi một thành viên ưu tú?
Rằng chính các người
cũng đang có sự mất mát đau thương?
Thì ắt hẳn các người sẽ ủ
rủ ưu sầu như mỗi một người trong chúng tôi đây, đang thấy lòng mình chùng
xuống, trĩu nặng tiếc thương.
Và các bạn ở phương trời
xa, các bạn sẽ buồn xiết bao khi không thể chắp cánh bay về quê nhà để nghiêng
mình trước vong linh Thầy lần cuối?
Ôi! Bút mực nào nói hết
được tấc lòng! Người xưa thường nói: Sinh là Ký, Tử là Quy; sống chỉ là
gửi, chết mới thật là về, là đi về, một chuyến đi về vĩnh viễn.
Vĩnh biệt Thầy! Thương
tiếc Thầy!
Tất cả anh chị em chúng
tôi hiện diện ở đây cũng như đang ở xa,
Xin đốt nén hương lòng
nguyện cầu cho Thầy ra đi thanh thản,
Yên nghỉ thanh thản,
Mãi mãi và mãi mãi thanh
thản trong cõi vĩnh hằng…